Bệnh nhân được phẫu thuật khối u vùng lưỡi, phẫu thuật vi phẫu tạo hình lưỡi thành công (Ảnh: T.X).
Khi khám lâm sàng, bác sĩ phát hiện trong khoang miệng của người bệnh có khối u kích thước khoảng 6cm, cứng, nhiều thùy múi, thâm nhiễm xung quanh, lan tỏa lưng lưỡi, cuống lưỡi và sàn miệng trái.
Trên bề mặt khối u sùi loét, lồi lõm không đều, nhiều giả mạc, lưỡi bị hạn chế vận động, di căn hạch dưới hàm trái…
Dựa vào kết quả khám, kết quả xét nghiệm, chiếu chụp cần thiết, các bác sĩ đã xác định người bệnh bị u ác bờ của lưỡi/ ung thư bờ lưỡi.
Đáng nói, tình trạng ung thư lưỡi của bệnh nhân đã ở giai đoạn muộn (giai đoạn T3) với kích thước khối u đã lớn, gây xâm lấn toàn bộ từ phía vùng niêm mạc miệng đến toàn bộ lớp cơ, mạch máu và hệ thống xung quanh vùng lưỡi.
TS Nhung cho biết, khi khai thác bệnh sử, người bệnh có tiền sử bị viêm màng não, tăng huyết áp. Hiện bà còn mắc chứng bệnh lẫn của tuổi già nên càng khó phát hiện sớm bệnh.
Con gái bệnh nhân cho biết, người bệnh thường xuyên chỉ và bảo bị đau miệng nên người nhà tưởng bị đau răng nên đã cho bà đi khám răng tại một cơ sở nha khoa.
Khi đi khám nha khoa, bác sĩ thấy bất thường nên đã cho người bệnh làm sinh thiết để tầm soát nguy cơ. Kết quả cho thấy bị ung thư biểu mô tế bào vảy, gia đình hoảng hốt đưa bệnh nhân vào Bệnh viện E khám.
Các bác sĩ quyết định thực hiện phẫu thuật cắt khối u lưỡi cho người bệnh. Các phẫu thuật viên đã tiến hành cắt rộng khối ung thư sàn miệng và 1/2 lưỡi kèm theo nạo vét hạch cổ giúp ngăn chặn khối u xâm lấn sang các vùng khác.
"Sau khi cắt khối u đã để lại một khuyết hổng lớn ở lưỡi và vùng chậu sàn miệng, chúng tôi đã phẫu thuật vi phẫu tạo hình lưỡi cho bệnh nhân bằng cách sử dụng vạt da ở vị trí cánh tay phải", TS Nhung thông tin.
Theo TS Nhung, ung thư lưỡi là một trong những loại ung thư phổ biến nhất của ung thư miệng, gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh.
Đến nay, vẫn chưa xác định được căn nguyên chính xác gây bệnh ung thư lưỡi. Tuy nhiên, một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư lưỡi, như thói quen uống rượu và hút thuốc lá kéo dài, vệ sinh răng miệng kém, thói quen ăn uống chưa hợp lý, quan hệ tình dục không an toàn (bằng miệng), gen...
Các triệu chứng ban đầu của ung thư lưỡi không rõ ràng, mờ nhạt, thường dễ nhầm lẫn với các bệnh lý răng miệng thông thường khác, do đó khó phát hiện ngay khi ở giai đoạn khởi phát, bỏ qua giai đoạn vàng điều trị.
Do vậy, khi gặp bất cứ triệu chứng bất thường nào ở lưỡi, má, hoặc bất cứ vị trí nào vùng khoang miệng… cần đến ngay cơ sở y tế uy tín để được thăm khám và điều trị kịp thời.
Những người có nguy cơ cao mắc bệnh cũng nên thường xuyên tầm soát ung thư, nhằm phát hiện sớm bệnh. Đặc biệt ở những người trên 40 tuổi, có tiền sử hút thuốc, uống rượu và những người có thói quen quan hệ tình dục không an toàn… cần tầm soát ung thư lưỡi.
" alt=""/>Người phụ nữ đau lưỡi uống thuốc không đỡ, phát hiện căn bệnh hiểmĐó là kết luận trong một nghiên cứu gần đây của 2 tác giả đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội là TS. Vũ Hoàng Linh (Trường Đại học Việt Nhật), và TS. Trần Quang Tuyến (Khoa Quốc tế).
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí quốc tế có tên International Journal of Educational Development thuộc nhà xuất bản Elsevier, trong danh mục ISI (SSCI) và xếp hạng Q1 theo Scimago.
Nội dung chính của nghiên cứu là phân tích tác động nhân quả của “quy mô, thứ tự sinh và cấu trúc giới tính tới kết quả học tập của trẻ ở Việt Nam”.
TS. Vũ Hoàng Linh cho biết, cho tới nay, các phát hiện nghiên cứu thường không thống nhất. Ví dụ, việc gia tăng số con làm giảm kết quả học tập ở một số nước, nhưng lại tăng kết quả học tập hoặc không có tác động ở các nước khác.
Để trả lời cho câu hỏi “số trẻ em, thứ tự sinh và cấu trúc giới tính của trẻ có ảnh hưởng tới kết quả học tập hay không?”, 2 tác giả Vũ Hoàng Linh và Trần Quang Tuyến đã thực hiện một nghiên cứu phân tích nhân quả, sử dụng dữ liệu từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Trong nghiên cứu này, kết quả học tập được đo bằng số năm đi học của trẻ và việc đi học của trẻ. Các biến số kiểm soát bao gồm tuổi, giới tính, sắc tộc, giáo dục của mẹ, tuổi của mẹ lúc sinh trẻ, và điều kiện kinh tế của hộ, đặc điểm vùng miền, thành thị và nông thôn.
TS. Trần Quang Tuyến cho biết, trên thực tế, có một số bố mẹ thích đẻ ít con để có nhiều nguồn lực đầu tư cho trẻ hơn, và họ là nhóm thích chất lượng hơn số lượng. Nhiều bố mẹ khác thích nhiều con lại thường là các hộ nghèo và do vậy ít đầu tư cho con hơn, làm cho chất lượng giáo dục của trẻ bị giảm sút.
Tương tự, cấu trúc giới tính cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Thường ở các nước Châu Á và Việt Nam, việc ưa thích con trai hơn gái có thể khiến các gia đình đẻ thêm cho tới khi có con trai. Hệ quả là các gia đình thường đầu tư cho con trai nhiều hơn gái.
Nghiên cứu này cho thấy, quy mô số trẻ trong gia đình có tác động tiêu cực tới kết quả học tập của trẻ. Cụ thể, cha mẹ đẻ thêm 1 con là giảm số năm đi học 0,16 năm.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy cấu trúc giới tính có tác động tới kết quả học tập của trẻ. Gia đình có thêm 1 bé trai làm giảm kết quả học tập cho cả bé trai và gái. Nghiên cứu cũng cho thấy thứ tự sinh có tác động tiêu cực tới kết quả học tập. Nói cách khác, các bé càng sinh sau càng có kết quả học tập thấp hơn. So với trẻ đầu, trẻ thứ 2 có số năm đi học ít hơn 0,12 năm và trẻ thứ 3 ít hơn 0,14 năm.
Đặc biệt, khi một gia đình cố gắng sinh thêm con trai có tác động tiêu cực tới kết quả học tập của trẻ, giảm khả năng đi học là 12% và giảm số năm đi học là nửa năm.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng khẳng định rõ trẻ em thuộc nhóm dân tộc thiểu số có kết quả học tập thấp hơn, cả việc đi học và số năm đi học. Hơn nữa, trẻ em ở các gia đình chủ hộ là nữ thường có kết quả học tập thấp hơn. Thường ở Việt Nam, các chủ hộ nữ thường là các chủ hộ ly dị hoặc chồng mất. Do vậy, hoàn cảnh kinh tế thường khó khăn khiến họ đầu tư ít hơn cho con cái.
Như kỳ vọng, giáo dục của mẹ và điều kiện kinh tế của gia đình là những nhân tố quan trọng quyết định tới kết quả học tập của con.
TS. Trần Quang Tuyến cho rằng, nghiên cứu này cung cấp những hàm ý chính sách quan trọng. “Đây là chủ đề nghiên cứu có ý nghĩa hữu ích cho chính sách giáo dục và nhân lực, đặc biệt ở các nước đang phát triển khi mà nguồn lực của các hộ gia đình cũng như cách chính sách phúc lợi còn hạn chế”.
Nghiên cứu cũng là một khám phá nhằm cung cấp thêm những bằng chứng khoa học tin cậy, làm sáng tỏ thêm những tranh luận về việc số lượng trẻ trong gia đình và cấu trúc giới tính, thứ tự sinh sẽ ảnh hưởng ra sao tới kết quả học tập của trẻ sau này.
Nguyễn Thảo
Một bà mẹ Trung Quốc đã nộp khoản tiền phạt 155.000 USD (hơn 3,5 tỷ đồng) để được sinh 7 người con, đi ngược lại xu hướng ngại sinh nhiều con ở nước này.
" alt=""/>Nhà đông con và thích con trai có ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả học tập của trẻ