Sau hai tháng triển khai nghị quyết, Bến Tre đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hành trình số hoá. Theo đó, Sở TT&TT đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng Kiến trúc chính quyền điện tử (CQĐT) tỉnh Bến Tre phiên bản 2.0. Việc xây dựng Kiến trúc CQĐT đóng vai trò quan trọng trong phát triển CQĐT (hướng đến Chính quyền số), giúp lãnh đạo các cấp có cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư triển khai CQĐT kịp thời, chính xác; nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ CQĐT.
Tỉnh đã triển khai thí điểm có hiệu quả hai dịch vụ đô thị thông minh trên địa bàn thành phố Bến Tre. Đầu tiên, phần mềm “Thành phố Bến Tre trực tuyến” quản lý phản ánh hiện trường và tương tác trực tuyến trên khung giải pháp VNPT Smart City (gồm các lĩnh vực rác thải, tập trung mua bán và lấn chiếm lòng lề đường, quảng cáo, trật tự xây dựng). Thứ hai là dịch vụ giám sát an ninh, giao thông.
Hiện Sở TT&TT đang phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành xây dựng kế hoạch thí điểm tiếp tại hai huyện theo đề xuất của Viettel, đồng thời xây dựng kế hoạch triển khai Trung tâm giám sát điều hành thông minh (IOC) của tỉnh, dự kiến hết quý I/2021 đưa vào vận hành thử nghiệm.
Ngoài ra, việc thành lập Trung tâm Công nghệ thông tin và Chuyển đổi số tỉnh Bến Tre đang được triển khai trình UBND tỉnh. Bến Tre cũng có kế hoạch tham gia chuỗi công viên Phần mềm Quang Trung.
Chuyển 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức 4 chỉ trong 2 tháng
Trước đó, kể từ 31/10/2020, Bến Tre đã hoàn thành việc đưa 100% dịch vụ công trực tuyến lên mức độ 4 chỉ trong vòng hai tháng kể từ khi lên kế hoạch.
![]() |
Dịch vụ công trực tuyến trực tuyến mức 4 vận hành tại Bến Tre. (Ảnh: Vân Anh). |
Qua thống kê, số lượng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4 được cung cấp là 1.030 thủ tục (trong đó: cấp tỉnh là 952 thủ tục; cấp huyện là 53 thủ tục; cấp xã là 25 thủ tục). Tuy nhiên, số lượng DVCTT mức độ 4 được cung cấp thực tế trên Cổng DVCTT của tỉnh là 904 thủ tục. Nguyên nhân, trong quá trình thực hiện một số thủ tục được bãi bỏ. Bên cạnh đó, một số thủ tục được cung cấp trên hệ thống của Bộ, ngành liên quan nhưng chưa thể tích hợp vào Cổng DVCTT của tỉnh để chia sẻ, giải quyết và đồng bộ hồ sơ giữa các hệ thống.
Trong thời gian tới, tỉnh Bến Tre tiếp tục kế hoạch truyền thông triển khai thực hiện Đề án chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh; Chỉ đạo các sở, ban ngành, địa phương thực hiện thủ tục triển khai các dự án đã được UBND tỉnh phê duyệt trong kế hoạch thực hiện đề án chuyển đổi số; Đồng thời tăng cường tuyên truyền, đổi mới tư duy, nhận thức của từng cán bộ, đảng viên, hộ gia đình và doanh nghiệp về chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số trong đời sống, sản xuất, thương mại và thực thi công vụ.
Ông Trịnh Minh Châu, Giám đốc Sở TT&TT Bến Tre, cho biết trong quá trình thực hiện Nghị quyết về Chuyển đổi số, tỉnh đã gặp nhiều thách thức, nhưng sẽ quyết liệt đẩy nhanh tiến độ triển khai các các nội dung trong đề án.
“Những thách thức đều rất mới, chưa có hình mẫu trước đó để làm theo, nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm tìm hướng giải quyết”, ông Châu trả lời ICTnews. Theo ông Châu, một số tỉnh thành đã triển khai chuyển đổi số, tuy nhiên mỗi nơi đều ưu tiên phát triển thế mạnh địa phương nên mô hình khác nhau, không có nhiều điểm tương đồng để tham khảo.
Tuy vậy, ông Châu khẳng định chuyển đổi số là quyết tâm của lãnh đạo tỉnh. Sở TT&TT là đầu mối kết nối với các sở ngành tại địa phương, trước mắt sẽ tập trung thực hiện chuyển đổi số trong y tế, giáo dục và triển khai hiệu quả việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức dộ 4. Song song với nỗ lực quyết liệt của địa phương, tỉnh rất cần sự hỗ trợ từ các bộ ngành liên quan để thực hiện thành công đề án.
Ông Châu cho biết trong thời gian đưa các dịch vụ công mức độ 4 lên trực tuyến, phía Cục Tin học hoá (Bộ TT&TT) đã hỗ trợ rất nhiều. Phía Cục cùng với Sở và đơn vị cung cấp nền tảng đã cùng phối hợp để chuẩn hoá quy trình, tạo các biểu mẫu điện tử, để các thông tin trên cổng một cửa điện tử của tỉnh tương thích với Cổng quốc gia. Cục Tin học hóa cũng hướng dẫn nhiều quy trình và giúp tháo gỡ một số vướng mắc khi tỉnh triển khai các dịch vụ công trực tuyến.
Trước đó, trong cuộc họp trực tuyến với Bộ TT&TT hồi tháng 7/2020, tỉnh Bến Tre nêu những khó khăn liên quan quá trình chuyển đổi số. Cụ thể, tổng số thuê bao sử dụng điện thoại thông minh (smartphone) trên toàn tỉnh là hơn 911 nghìn, trong đó chỉ có hơn 600 nghìn thuê bao (65%) phát sinh lưu lượng, thấp hơn gần 5% so với mức trung bình của cả nước.
Tỷ lệ thuê bao sử dụng smartphone/100 dân chỉ đạt 70,8%, thấp hơn mức trung bình toàn quốc (80,2%). Tỷ lệ thuê bao sử dụng smartphone/tổng số thuê bao di động chỉ đạt 54,14%.
Tỷ lệ phủ sóng di động theo dân số đối với 2G, 3G đạt 100% và đối với 4G đạt 91,07% thấp hơn trung bình của cả nước (tỷ lệ phủ sóng di động 4G của cả nước hiện đạt 95,72%). Số lượng thuê bao 2G/100 dân trên địa bàn vẫn còn chiếm tỷ lệ đáng kể (54%).
Bàn về việc này, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định khó khăn là trở ngại nhưng cũng là lợi thế của Bến Tre. Bến Tre là tỉnh đi sau, cần phải đi nhanh hơn để bắt kịp với các tỉnh ở tốp đầu.
Gợi ý cho Bến Tre giải quyết vấn đề, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đề xuất tỉnh tăng tỷ lệ sở hữu smartphone của người dân. Với sự tham gia của các nhà mạng, nhà sản xuất Việt Nam, việc đưa giá smartphone về dưới 1 triệu đồng rất khả thi, giúp tiếp cận người dân dễ dàng hơn.
Với thế mạnh nông nghiệp, Bộ trưởng đề xuất tỉnh cần có giải pháp đưa các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh lên các sàn thương mại điện tử như Vỏ sò của Viettel hay Postmart của VNPost.
Sau cuộc họp này, phía Cục Tin học hoá và Bến Tre đã cùng phối hợp để đưa 100% dịch vụ công mức độ 4 lên trực tuyến. Tiếp đó, vào tháng 10/2020, Bến Tre phê duyệt Nghị quyết về Chuyển đổi số giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn 2030, với tổng kinh phí dự kiến 1.300 tỷ đồng.
Năm 2019, Bến Tre chỉ xếp thứ 46 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 58 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 54 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Nhưng những thành công bước đầu về chuyển đổi số của Bến Tre trong năm 2020 đã cho thấy ngay cả những tỉnh ở top sau về kinh tế vẫn có thể tiên phong về chuyển đổi số.
Hải Đăng
Sáng 17/7, Bộ Thông tin & Truyền thông đã có buổi làm việc trực tuyến với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre.Tại đây, nhiều thông tin đã được chia sẻ nhằm tìm ra hướng phát triển phù hợp cho tỉnh bằng việc ứng dụng công nghệ mới trên môi trường số.
" alt=""/>Bến Tre đưa 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức 4 chỉ trong 2 thángBên cạnh đó, kế hoạch nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ; phấn đấu hoàn thành trước quý IV/2023.
Kế hoạch cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư cũ trên địa bàn thành phố - đợt 1, tập trung di dời các hộ dân và khẩn trương xây dựng lại các chung cư cũ nguy hiểm cấp D; phấn đấu cải tạo, xây dựng lại 2-3 khu chung cư cũ trong giai đoạn 2021-2025.
Việc nghiên cứu xây dựng, ban hành quy định về cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ thuộc thẩm quyền của thành phố, trong đó có các tiêu chí để lựa chọn chủ đầu tư, hệ số bồi thường K và các cơ chế, chính sách cụ thể thuộc thẩm quyền của thành phố; dự kiến hoàn thành trong quý III năm nay.
Việc thẩm định, đánh giá công tác kiểm định chung cư cũ; thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và bố trí chỗ ở tạm thời cho các chủ sở hữu, người sử dụng nhà chung cư cũng được nêu rõ tại kế hoạch này.
Cùng ngày ký ban hành Kế hoạch này, Ban Chỉ đạo cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư cũ trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng đã có Quyết định số 01-QĐ/BCĐ về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ và quy chế làm việc của Ban Chỉ đạo cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư cũ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Mới đây, HĐND Thành phố đã thông qua Chương trình phát triển nhà ở thành phố Hà Nội, giai đoạn 2021-2030. Trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2030, triển khai cải tạo, xây dựng lại 10 khu chung cư cũ (6 khu có tính khả thi cao như: Kim Liên, Trung Tự, Khương Thương, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Nghĩa Tân và 4 khu có nhà nguy hiểm cấp D: Giảng Võ; Thành Công: Ngọc Khánh; Bộ Tư pháp).
Hiện nay, trên địa bàn TP Hà Nội có khoảng 1.579 nhà chung cư cũ được xây dựng từ năm 1960-1994 và trước năm 1954, hầu hết đã hết niên hạn sử dụng, trong đó có nhiều nhà chung cư cũ xuống cấp. Trong đó có không ít nhà chung cư, tập thể cũ nằm ở vị trí “đất vàng”, “đất kim cương”.
Từ năm 2005-2014, đã hoàn thành cải tạo xây dựng lại 19 dự án và 14 dự án đang triển khai. Từ năm 2014, sau khi Luật ở nhà 2014, Nghị định 100/2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành đến nay không có dự án mới nào được bổ sung thêm, tiến độ thực hiện chậm, kém hiệu quả.
Có thể thấy, sau gần 20 năm, Hà Nội mới chỉ có 1% chung cư cũ được cải tạo, sửa chữa trên tổng số hơn 1.500 căn chung cư cũ của thành phố.
UBND TP Hà Nội dự kiến bố trí nguồn vốn ngân sách khoảng 500 tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025 để thực hiện tổng kiểm tra, rà soát, kiểm định, đánh giá chất lượng toàn bộ chung cư cũ.
" alt=""/>Hà Nội dự kiến kiểm định xong hơn 1.500 chung cư cũ trước quý IV/2023Các mục tiêu cơ bản cho giai đoạn đến năm 2025 và đến năm 2030 của 3 trụ cột Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số cũng đã được UBND tỉnh Long An đề ra trong Chương trình chuyển đổi số của tỉnh.
Theo đó, về phát triển Chính quyền số, Long An đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% thủ tục hành chính đáp ứng yêu cầu triển khai dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4; 80% dịch vụ công trực tuyến mức 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 80% giao dịch trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công và hệ thống một cửa điện tử của tỉnh được xác thực điện tử.
Cũng đến 2025, 90% hồ sơ công việc tại cấp tỉnh, 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã trên địa bàn Long An sẽ được xử lý trên mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện xây dựng và triển khai hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành…
Với trụ cột kinh tế số, mục tiêu đến năm 2025 của Long An là kinh tế số đóng góp 20% GRDP toàn tỉnh, năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7% và tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%.
Song song với đó, 90% doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ứng dụng CNTT trong sản xuất kinh doanh và 70% doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiếp cận và tham gia các hoạt động giao dịch điện tử trên mạng vào năm 2025.
Về phát triển xã hội số, mục tiêu đến năm 2025 hạ tầng băng rộng cáp quang sẽ phủ trên 90% hộ gia đình, 100% cấp xã. Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; cơ bản các hộ gia đình trên toàn tỉnh được phổ cập Internet; 100% người dân trưởng thành đảm bảo điều kiện được phổ cập điện thoại thông minh.
Đồng thời, đến năm 2025, một nửa người dùng smartphone tại Long An được tiếp cận với các dịch vụ chính quyền điện tử, đô thị thông minh. Tỷ lệ người dân Long An có tài khoản tham gia vào hoạt động thanh toán điện tử là 50% vào năm 2025.
8 lĩnh vực được Long An ưu tiên chuyển đổi số
Cũng tại Chương trình chuyển đổi số tỉnh Long An, UBND tỉnh đã vạch ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sẽ được tập trung triển khai trong thời gian tới, bao gồm: phát triển nền tảng cho chuyển đổi số, phát triển Chính quyền số, phát triển kinh tế số và phát triển xã hội số.
Trên quan điểm xác định nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số, Long An đã đề ra hàng loạt giải pháp để chuyển đổi nhận thức, góp phần thiết lập nền tảng cho chuyển đổi số.
Cụ thể, trong Chương trình, UBND tỉnh Long An nêu rõ, chuyển đổi số phải bắt đầu từ nhận thức vai trò người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách.
Quan điểm chuyển đổi số thực hiện trên phương châm “4 không 1 có”: làm việc không giấy tờ, hội họp không tập trung nhiều, dịch vụ công không gặp mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và luôn có câu hỏi thông tin, dữ liệu được tiếp cận đã được số hóa chưa?
Cùng với đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải cam kết đổi mới, cho phép thử nghiệm cái mới, ứng dụng công nghệ mới vì mục tiêu phát triển bền vững, liên kết các thành phần khác nhau theo mô hình kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy phát triển công nghiệp sáng tạo trong ngành, lĩnh vực, địa phương mình phụ trách.
Cũng để chuyển đổi nhận thức về chuyển đổi số, thời gian tới, Long An sẽ tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm giới thiệu kiến thức cơ bản về chuyển đổi số, nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao nghiệp vụ quản lý nhà nước trên nền tảng chuyển đổi số cho các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến xã; tổ chức các chương trình phổ biến kiến thức về các công nghệ số, các loại mô hình kinh tế số đổi mới sáng tạo…
Đặc biệt, UBND tỉnh Long An đã xác định 8 lĩnh vực sẽ ưu tiên chuyển đổi số, gồm có: y tế, giáo dục, giao thông vận tải, nông nghiệp, tài nguyên và môi trường, văn hóa thể thao và du lịch, logistics, năng lượng.
Trong mỗi lĩnh vực ưu tiên, UBND tỉnh Long An đều nêu cụ thể các nhiệm vụ cần triển khai. Đơn cử như, các nhiệm vụ chính trong chuyển đổi số y tế là: phát triển hạ tầng CNTT ngành y tế, xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh thông minh, xây dựng hệ thống khám chữa bệnh thông minh của tỉnh…
Chương trình chuyển đổi số tỉnh Long An xác định tầm nhìn đến năm 2030, Long An hoàn thiện mô hình Chính quyền số, xã hội số; đô thị thông minh trở thành mô hình phổ biến trong điều hành, vận hành hệ thống quản lý nhà nước và xã hội. Cùng với đó, kinh tế số trở thành phương thức cốt lõi để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội; ICT là đột phá; công nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao là nền tảng." alt=""/>Long An sẽ triển khai mô hình chuyển đổi số điểm tại Sở TT&TT và 3 phường, xã