Đó là chia sẻ của đại diện Cty CP Đầu tư và Xây dựng Xuân Mai tại hội thảo chuyên đề “Nợ đọng xây dựng cơ bản – Biện pháp tháo gỡ và hướng giải quyết”được tổ chức ngày 28/6.
Cũng theo đơn vị này, Bảo tàng Hà Nội hay nhà sinh viên Mỹ Đình mà đơn vị này tham gia đều vướng vấn đề về nợ đọng xây dựng cơ bản.
![]() |
Bảo tàng Hà Nội, công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đã đi vào hoạt động từ năm 2010 đến nay vẫn vướng nợ đọng xây dựng cơ bản (Ảnh: Julia Ackermann) |
“Đầu tư dàn trải là nguyên nhân chính khiến tình trạng nợ đọng lớn. Điều này không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp mà cả doanh nghiệp liên quan, sức khỏe của doanh nghiệp yếu đi. Nhà thầu cứ phải chạy năm này qua năm khác. Những năm thắt chặt đầu tư công, dự án đang triển khai thì rất khó để thanh, quyết toán, thủ tục không đầy đủ, rất khó cho doanh nghiệp” – vị đại diện nói.
Cũng chỉ ra nguyên nhân từ sự đầu tư dàn trải, đại diện Tổng Cty 36 còn cho rằng, trong quá trình thực hiện dự án, để cạnh tranh, các nhà thầu vì công việc, biết chưa đủ tiền, hồ sơ mời thầu có vấn đề nhưng vẫn làm. Trong cuộc chơi nói là bình đẳng nhưng không bình đẳng, hồ sơ nợ đọng 5-7 năm trước của nhiệm kỳ trước, đến nhiệm kỳ sau không trả.
Đại diện Tổng công ty 36 cũng chia sẻ, tại dự án Coma 18 dự án Westa (Hà Đông), khi tham gia thực hiện dự án vào thời điểm bất động sản nóng sốt, chủ đầu tư bảo nhà thầu yên tâm. Nhưng khi thi công xong, thị trường bất động sản nguội lạnh không bán được, bán giá thấp, chủ đầu tư khó khăn về tài chính. Nợ đọng 5- 7 tỷ ở dự án mà rõ ràng lúc làm đầy đủ tài chính, pháp lý.
Trao đổi tại hội thảo, ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam nêu vấn đề, nhiều doanh nghiệp phản ánh bị nợ đọng tiền xây dựng cơ bản vốn ngân sách Nhà nước đến 2.000 tỷ đồng, trong khi vốn công ty khoảng 200 – 300 tỷ đồng. Doanh nghiệp vì thế phải “còng lưng” trả lãi ngân hàng”. Đáng chú ý, phần lớn nợ đọng này lại tập trung vào khối doanh nghiệp có nguồn gốc nhà nước. Dẫn đến tình trạng “Nhà nước nợ nhà nước”, rất khó giải quyết.
Nếu tính toán nhanh thì lực lượng nhà thầu trên toàn quốc hiện nay chiếm khoảng 20 – 25% tổng GDP toàn quốc. Tuy nhiên, nợ đọng vốn ngân sách Nhà nước đang là vấn đề nan giải, mà người chịu thiệt là các nhà thầu. Bên cạnh đó, các dự án từ nguồn vốn ODA không được thanh toán theo Hợp đồng Fidic (Luật Hiệp hội các nhà thầu quốc tế). Các nhà thầu đều cho rằng chủ đầu tư luôn cầm dao đằng chuôi còn nhà thầu luôn ở thế cầm dao đằng lưỡi.
Đại diện tập đoàn DELTA nhìn nhận các quy định cụ thể, thiết thực nhằm hạn chế nợ đọng trong xây dựng cơ bản thì chưa đủ mạnh để tạo sức ép cho chủ đầu tư phải thực hiện thanh toán cho Nhà thầu như hợp đồng đã ký kết.
Ở góc độ doanh nghiệp là chủ đầu tư, mặc dù tự mình “dẫm chân” mình nhưng ông Hiệp thẳng thắn nhìn nhận, như các điều khoản về Hợp đồng xây dựng cần có sự bình bằng giữa nhà thầu và chủ đầu tư. Bởi khi nhà thầu nộp hồ sơ thầu phải có bảo lãnh dự thầu, đến khi ký được Hợp đồng phải có bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Nếu làm thầu mà bỏ thầu thì mất tiền bảo lãnh dự thầu, còn nếu khi thực hiện hợp đồng mà nhà thầu gặp khó khăn xin rút nếu không được sự đồng ý của chủ đầu tư thì mất tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Trong khi đó ngược lại về phía nhà thầu hoàn toàn không có sự bảo lãnh thanh toán 30% Hợp đồng khi triển khai thực hiện được 60 – 70 % khối lượng công việc.
Đồng với quan điểm trên, ông Dương Văn Cận – Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam thẳng thắn nói, Luật xây dựng cần được sửa đổi, thực tế Luật đấu thầu “bắt chẹt” các nhà thầu. “Mặc dù, từ 2013 đến nay Chính phủ đã có nhiều Chỉ thị, đặc biệt là Chỉ thị số 23/CT-TTg Luật đầu tư công Chính phủ ngày 5/8/2014 quy định rất chặt chẽ là chấm dứt nợ đọng xây dựng cơ bản ngân sách Nhà nước từ 31/12/2014 và không giải quyết nợ đọng từ 1/1/2015 nữa nhưng nợ đọng vẫn hiện hữu. Rõ ràng Chỉ thị vẫn chưa đi vào cuộc sống, nhà thầu sống lay lắt chưa phá sản do chiếm dụng vốn của nhau” - Ông Cận cho hay.
Theo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tính đến hết kế hoạch năm 2016, tổng số nợ đọng xây dựng cơ bản vốn ngân sách trung ương là 9.557,6 tỷ đồng. Đại diện Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam cho biết thời gian tới sẽ tiếp tục ghi nhận ý kiến của các đơn vị và sẽ có kiến nghị gửi tới Chính phủ, các cơ quan quản lý để tháo gỡ và tìm hướng giải quyết cho vấn đề này.
Hồng Khanh
Năm 1994, trung bình lương giáo viên thấp hơn các ngành nghề khác (có bằng cấp tương đương) là 1,8%, nhưng đến năm 2015, số chênh lệch này là 17% (đã điều chỉnh theo lạm phát). Tính cả các phúc lợi như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, lương của giáo viên gần như bằng các ngành nghề khác vào năm 1994, nhưng lại kém tới 11% vào năm 2015.
Báo cáo này cũng cho thấy khoảng cách về lương hay như Viện này dùng từ “bất lợi” có thể làm phức tạp thêm những nỗ lực của California và các bang khác trong việc giải quyết tình trạng thiếu giáo viên và sự cạnh tranh để thu hút người tài làm nghề này. “Nếu mục tiêu của chính sách này là để cải thiện chất lượng toàn bộ nhân lực giáo viên, thì việc tăng mức phúc lợi cho giáo viên – bao gồm lương – là rất quan trọng để có thể tuyển dụng và giữ chân được những giáo viên giỏi” – nghiên cứu cho hay.
Trung bình, lương của các giáo viên trường công giảm 30 đô la mỗi tuần – tương đương 2,6% - từ năm 1996 đến năm 2015 (đã điều chỉnh lạm phát), trong khi lương hàng tuần của tất cả lao động có bằng đại học tăng 9,6% từ 1.292 đô lên 1.416 đô trong giai đoạn đó.
Trung bình, một giáo viên ở Mỹ có thu nhập chỉ bằng 77% thu nhập ở các ngành nghề khác – theo số liệu từ năm 2011-2015. Tiểu bang Wyoming là nơi có khoảng cách này thấp nhất – chỉ 1,5%. Chỉ có 5 bang của Mỹ lương giáo viên mỗi tuần thấp hơn các nghề khác dưới 10%.
![]() |
Khoảng cách thu nhập giữa giáo viên trường công và lao động các ngành nghề khác trong giai đoạn từ năm 1979 đến 2015 |
Giáo viên ở California có thu nhập bằng 86% thu nhập các ngành nghề khác – cao thứ 10 trong số các bang. Kể từ cuối những năm 1990, trung bình lương giáo viên ở California nằm trong số 5 bang cao nhất, mặc dù đổi lại lợi thế này là chi phí sinh hoạt cao, đặc biệt là ở vùng Vịnh, thành phố Los Angeles và San Diego.
Báo cáo cũng ghi nhận sự khác biệt đáng kể về giới trong khoảng cách thu nhập. Năm 1960, khi phụ nữ phải đối mặt với nhiều sự kỳ thị hơn ở công sở cũng như có ít lựa chọn nghề nghiệp hơn, thì các giáo viên nữ lại có một lợi thế hơn về thu nhập so với các ngành nghề khác. Họ kiếm được nhiều hơn những phụ nữ làm nghề khác 14,7% tính theo lương tuần. Tới năm 1979, sự khác biệt này được thu hẹp xuống còn 4,2%. Năm 2015, Viện này ước tính các nữ giáo viên thu nhập thấp hơn phụ nữ làm nghề khác 13,9%.
Nam giáo viên vào năm 1979 kiếm ít hơn đàn ông làm nghề khác khoảng 22,1%. Khoảng cách này cũng được thu hẹp xuống còn 15% vào giữa những năm 1990, nhưng lại tăng lên 24,5% vào năm 2015.