Việc sử dụng bộ đàm hiện nay khá phổ biến.Bác yêu cầu khởi kiện
Tại phiên xử sơ thẩm lần hai, TAND TP Cần Thơ cho rằng vấn đề mấu chốt cần xác định là người sử dụng bộ đàm có phải là người của công ty hay không.
Theo tòa, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện đây là người của Công ty ĐĐ. Cụ thể tại biên bản làm việc ngày 24/3/2015 với Thanh tra Sở, phía Công ty ĐĐ thừa nhận việc dùng bộ đàm sai là hành vi có lỗi của nhân viên mình. Công ty còn cho rằng đây là lần đầu tiên nhân viên bảo vệ của công ty vi phạm do không hiểu biết pháp luật.
Cạnh đó, tại trang số 2 của văn bản kiến nghị ngày 22/3/2015, công ty cũng thể hiện: “Đây là vi phạm lần đầu, không phải nhiều lần, không gây nguy hiểm đến an ninh kinh tế, đề nghị chỉ nhắc nhở hoặc phạt ở mức phạt 6 triệu đồng”.
Tòa cho rằng những thừa nhận này là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 309 Luật Tố tụng hành chính. Do vậy HĐXX có đủ cơ sở để xác định người vi phạm tại biên bản vi phạm lập ngày 29/1/2015 do chánh Thanh tra Sở lập là người của Công ty ĐĐ.
Cũng theo tòa, trình tự thủ tục ban hành các quyết định số 17 và 20 của phía Thanh tra Sở là tuân thủ đúng pháp luật, đúng thẩm quyền, việc vận dụng tình tiết tăng nặng trong xử phạt cũng đúng…
Về việc vì sao Công ty ĐĐ đã chấm dứt hợp đồng bảo vệ với đối tác nhưng nhân viên vẫn làm bảo vệ tại nơi lập biên bản vi phạm, HĐXX cho rằng không mâu thuẫn. Bởi hợp đồng dịch vụ giữa hai bên xác lập địa điểm bảo vệ khác chứ không phải địa điểm bị phạt.
Cụ thể, hợp đồng dịch vụ bảo vệ năm 2014 xác định địa điểm bảo vệ tại nhà hàng BĐ 2 ở đường 30 tháng 4, trong khi địa điểm bị phạt tại nhà hàng BĐ ở đường Lê Lợi. Do vậy đây không phải là căn cứ nói rằng xử phạt vi phạm hành chính của chánh Thanh tra Sở là sai.
Cuối cùng HĐXX đánh giá: Chánh thanh tra Sở ban hành quyết định xử phạt hành chính số 17 và quyết định cưỡng chế số 20 là có căn cứ pháp luật và hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của Công ty ĐĐ không được chấp nhận.
Xin phép để tránh tùy tiện
Việc sử dụng bộ đàm để liên lạc hiện nay khá phổ biến nhưng để tránh việc sử dụng tùy tiện nguồn phát vô tuyến điện, luật đã quy định khá rõ nguyên tắc sử dụng. Tôi cho rằng đây là điều cần thiết và nên có sự quản lý chặt của cơ quan có thẩm quyền.
Cụ thể, theo khoản 1 Điều 16 Luật Tần số vô tuyến điện thì mọi tổ chức, cá nhân sử dụng băng tần số, tần số vô tuyến điện và thiết bị phát sóng vô tuyến điện phải có giấy phép, trừ trường hợp nằm trong danh mục thiết bị vô tuyến điện được sử dụng có điều kiện. Do đó khi sử dụng bộ đàm phải đăng ký tần số với cơ quan quản lý, mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt.
Điều 77 Nghị định 174/2016 của Chính phủ (xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện) quy định năm mức xử phạt với số tiền từ 2 triệu đến 50 triệu đồng.
Chẳng hạn, phạt tiền 2-5 triệu đồng/thiết bị đối với hành vi sử dụng tần số, thiết bị văn phòng vô tuyến điện có công suất nhỏ hơn hoặc bằng 150 W mà không có giấy phép; phạt tiền 30-50 triệu đồng/thiết bị đối với hành vi sử dụng tần số, thiết bị phát sóng vô tuyến điện có công suất lớn hơn 5 kW và nhỏ hơn hoặc bằng 10 kW mà không có giấy phép…
Những trường hợp không cần có giấy phép tại Điều 27 luật này gồm: Thiết bị vô tuyến điện hoạt động ở cự ly ngắn, có công suất hạn chế, ít khả năng gây nhiễu có hại; thiết bị vô tuyến điện đặt trên tàu biển, tàu bay nước ngoài đi qua lãnh thổ Việt Nam được miễn giấy phép theo thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Luật sư Bùi Quốc Tuấn, Đoàn Luật sư TP.HCM
">